Dược thảo ở trong rau sống
-
Thuốc Ở Trong Rau
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Kinh nghiệm dân gian ta vẫn thường nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.
Nhưng thực ra, rau không chỉ là món ăn nhiều chất dinh dưỡng mà còn là những liều thuốc trị bệnh quý giá. Chẳng thế mà danh y Hải Thượng Lãn Ông của ta đã có nhận xét:
“Nên dùng các thứ thức ăn
Thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn”
Và thánh tổ y học phương tây Hippocrates có đưa ra một đề nghị hết sức thuyết phục là “Hãy để rau là vị thuốc”.
Mà những loại rau củ có vị đắng chứng tỏ các nhận xét này là rất đúng.
Trái Mướp Đắng màu xanh có bề ngoài gồ ghề ngộ nghĩnh đã được ghi trên sáu con tem biểu tượng cho sáu loại cây thuốc thiên nhiên có dược tính trị bệnh cao mà Liên Hiệp Quốc phát hành vào năm 1980.
Mướp đắng chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng căn bản như nước, đạm, carbohydrat, béo, sinh tố và một số khoáng chất với tỷ lệ khác nhau
Mướp đắng có thể dùng để ăn sống, nấu canh, xào với thịt bò, muối dưa, phơi khô làm trà pha nước uống...
Canh thịt heo bằm nhỏ nhồi vào mướp đắng là món ăn đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam.
Mướp đắng hấp với tôm tươi, thịt nạc, mộc nhĩ, nấm hương, hành khô, mắm muối tiêu, xảo với thịt.. tạo ra vị hơi đắng hòa với hương thơm mùi tôm thịt là món ăn giải nhiệt, bổ dưỡng..Món xà lách mướp đắng cũng rất hấp dẫn, ăn vào mát cơ thể..
Mướp đắng được coi như có khả năng làm hạ đường huyết, hạ huyết áp, chữa ho, giảm đau nhức, sát trùng ngoài da, trừ rôm sẩy ở trẻ em.
Trong mướp đắng cũng có một hóa chất có khả năng ngăn ngừa sự thụ thai ở loài chuột.
Trên thị trường hiện nay có bán trà khổ qua, được giới thiệu là có thể giúp ngủ ngon, đại tiện dễ dàng, mát gan, bổ mật, giải nhiệt, giải độc trong cơ thể và khi dùng thường xuyên sẽ ngừa được các biến chứng của bệnh tiểu đường, sỏi thận, mật....
Actiso Đà Lạt là loại thảo mộc nổi danh ở nước ta. Nổi danh vì khí hậu luôn luôn mát lạnh nơi cao nguyên nhiều nắng khiến cho actiso có năng suất cao.
Actisô có nhiều chất dinh dưỡng như các sinh tố C, B, folacin, chất xơ và một vài khoáng chất như sắt, kali.
Về phương diện ẩm thực, actisô thường được luộc, hấp cách thủy để ăn hoặc ninh với thịt gà, thịt lợn. Actisô có thể được dùng tươi, để đông lạnh hoặc đóng hộp.
Nhiều nghiên cứu cho biết Actisô có tác dụng bảo vệ gan, làm hạ cholesterol trong máu và đường huyết, kích thích sản xuất mật, giảm đau khớp xương, thông tiểu tiện.
Tại vài quốc gia, dung dịch chế biến từ actisô được dùng làm thuốc chích chữa các bệnh về gan. Trà Actisô là thức uống được rất nhiều người ưa dùng.
Theo nhiều nhà chuyên môn, actisô không gây tác hại cho cơ thể.
Diếp cá hoặc rau Giấp là món ăn ưa thích của bà con miền Nam.
Cách đây mấy chục năm, dân cư miền sông Hồng, núi Ngự vào giao lưu với Cửu Long Giang là rất lắc đầu “nhăn mặt” vì vị tanh tanh “lợm dọng” khi ăn phải cọng rau này. Vậy mà bây giờ, Nam Trung Bắc một nhà, nhiều người cũng đều ưa thích diếp cá.
Nhưng cái tanh tanh, béo béo của diếp cá lại rất “hiệp nhất” với cái tanh của những miếng cá còn tươi. Phải chăng đây là duyên tiền định với tên “diếp cá”. Trung Quốc gọi diếp cá là “Ngư Tinh Thảo” và tiếng Anh gọi là Fish Mint
Ở nước ta, diếp cá mọc hoang khắp vùng đất ẩm thấp và cũng được trồng làm rau ăn hoặc làm thuốc trị bệnh.
Diếp cá có thể ăn sống hoặc dùng làm gia vị chung với các rau khác trong bữa ăn. Có người hầu như ghiền với diếp cá, thiếu nó như thiếu người tình hơi “bị” cho là chanh chua nhưng dễ thương.
Lá diếp cá ăn vào rất mát, có thể làm trĩ hậu môn sẹp xuống. Ngoài ra, diếp cá cũng được y học dân gian tại nhiều quốc gia dùng làm lợi tiểu tiện, hạ cao huyết áp, giảm ho, tiêu diệt vi khuẩn.
Nghiên cứu tại viện y dược Toyama, Nhật Bản, cho hay diếp cá có chất chống oxy hóa rất mạnh quercetin có thể ngăn chặn nhiều loại ung thư và tăng cường tính miễn dịch..
Trong Lĩnh Nam Bản Thảo, danh y Hải Thượng Lãn Ông tóm tắt:
“Ngư Tinh Tảo gọi cây rau Giấp
Ấm cay, hơi độc, mùi hôi tanh
Ung thũng, thoát giang với đầu chốc
Đau răng, lỵ ngược chữa mau lành”.Khát khô cả họng trong nắng tháng Bảy của Sài Gòn mà gặp một xe bán Nước Rau Má xanh mát thì cơn khát không những hết đi mà tâm hồn cón thấy sảng khoái.
Thực vậy, nghiên cứu tại Ấn Độ cho hay nước triết rau má không những tăng khả năng trí tuệ của trẻ em có thương số thông minh (IQ) thấp mà còn làm người cao tuổi giảm bớt những quên này quên kia, giúp thị lực bớt nhạt nhòa.
Nhiều nghiên cứu khác còn gợi ý rằng rau má trị được cả bệnh vẩy nến, vết phỏng, vết thương, viêm khí quản, chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt, lợi tiểu.
Từ những năm 1960, Giáo sư Bửu Hội đã nghiên cứu tác dụng trị bệnh phong với rau má. Ngày nay, nhiều khoa học gia cho là chất Asiatioside của rau má có tác dụng tương đương với dược phẩm trị phong chính là Dapsone.
Rau má có tính lạnh cho nên người tỳ vị hàn, hay đi tiêu chảy, cần cẩn thận khi dùng.
Rau Đắng đã đi vào văn hóa âm nhạc trong những bài viết nhiều tình người, tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn từ rừng cao su Dầu Tiếng.
Nhăc phẩm “Còn thương rau đắng mọc sau hè” với tiếng hát Hương Lan, Như Quỳnh đã làm bao nhiêu khách ly hương khi nghe mà mắt nhòe ướt lệ.
“Ai cách xa cội nguồn
Ngồi một mình nhớ lũy tre xanh
Dạo quanh khung trời kỷ niệm
Chợt thèm rau đắng nấu canh”Vì nhớ tới những lũy tre xanh nơi có người chị đầu bạc tóc ân cần nhổ tóc sâu cho chú em từ xa về thăm quê. Có những bà mẹ hiền luôn luôn chăm sóc miếng ăn, thức uống cho chồng cho con.
Rau đắng nấu canh với các loại cá, nhúng lẩu hoặc chấm mắm kho là những món ăn tuyệt hảo của bà con miệt đồng. Rau đắng còn có thể nấu với thịt heo bầm nhuyễn, với tép, với tôm…
Mới ăn rau có vị khá đắng, chỉ kém có khổ qua, nhưng ăn quen lại thấy ngòn ngọt, nhớ hoài.
Rau đắng cũng được dùng trong y học.
Theo Giáo sư Đỗ Tất lợi, rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, bổ thận, giúp ăn ngon và giảm đau khi đắp lên nơi tê thấp, rắn cắn.
Kết luận
Nhà dinh dưỡng uy tín Hoa Kỳ Jean Carpenter phát biểu rằng “Trong thực phẩm có dược phẩm. Thay đổi dinh dưỡng có thể ngăn ngừa và giảm sự trầm trọng của bệnh tật”
Đây là lời khuyên khá hữu ích mà chúng ta cũng nên theo.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas Hoa Kỳ - https://www.nguyenyduc.com
-
Thuốc quý quanh ta: Khi đói làm rau, khi đau làm thuốc
Trong cuộc sống đời thường rau thơm vốn bé nhỏ nhưng khi bước vào lĩnh vực Y học dân tộc thì cái bé nhỏ ấy lại trở nên rộng lớn. Ít ai có thể ngờ rằng rau thơm lại có tác dụng phòng và chữa bệnh cho con người. Xin giới thiệu tính dược phong phú của một số loại rau thơm quen thuộc trong cuộc sống để bạn đọc có thể áp dụng khi cần thiết.
BẠC HÀ
Vị cay, mát không độc, vào 2 kinh can và phế, có tác dụng phát tán phong nhiệt, hạ sốt, làm ra mồ hôi, giảm uất, dùng chữa cảm nắng (cảm thử), đau bụng, bụng đầy, tiêu hoá không tốt, nhức đầu, dị ứng nổi mề đay, viêm họng có sốt, đàm vướng cổ, đau họng khản tiếng, thúc sởi mau mọc, làm thuốc sát trùng ngoài da, tai mũi họng, chống viêm.
Chữa cảm mạo, nhức đầu: Lá Bạc hà 6 g, Kinh giới 6 g, Phong phong 5 g, Hành hoa 6 g. Đổ nước sôi vào chờ 29 phút, uống nóng.
Chữa nôn, giúp tiêu hoá tốt: Lá hoặc cả cây Bạc hà (bỏ rễ) 5 g pha vào 200ml nước sôi, uống cách 3 giờ 1 lần.
DIẾP CÁ
Tính hơi lạnh vị cay chua vào phế kinh. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, sát trùng, trị táo bón, lòi dom trẻ em lên sởi, phổi ung có mủ, đau mắt đỏ hoặc nhiễm trùng gây mủ xanh, viêm ruột, kiết lỵ, kinh nguyệt không đều. Chủ trị của Diếp cá là trĩ hậu môn (đại tiện ra máu) chân tay phù nề do thận hư.
Chữa trẻ em sốt ban sởi mà không xuất hết ban sởi: giã nát Diếp cá vắt nước cốt cho uống, còn xác trộn với ít rượu trắng xoa hai bên cột sống lưng, nốt sởi sẽ mọc nhanh, cơn sốt sẽ giảm dần, trẻ không vật vã kêu khóc nữa.
Trị đau mắt đỏ: giã nhỏ lá Diếp cá ép vào 2 miếng giấy bản đắp lên mắt khi ngủ, làm 2 – 3 lần khỏi.
Chữa trĩ, lòi dom: Diếp cá 6 – 12 g, sắc uống thường xuyên đồng thời sắc nước lấy hơi xông, rồi rửa trĩ.
Chữa viêm sưng tai giữa, sưng tắc tia sữa: Diếp cá khô 20 g (tươi 40 g), táo đỏ 10 quả, nước 600 ml. Sắc còn 200 ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
Các bệnh khác dùng từ 6 – 12 g sắc uống hoặc dùng dạng bột, viên.
Hành lá
Tính ấm, vị cay ngọt. Tác dụng giải cảm, sát trùng, thông khí. Hành hoa tươi ăn chữa ho cảm, chữa bụng đầy trướng, khó tiêu.
Chữa trẻ em bí tiểu tiện: Bắt một con nhện to, giã nát với 2 củ Hành hoa rồi đắp lên bụng ở phía dưới rốn khoảng 2cm, chỉ vài phút sau là công hiệu (trẻ đi tiểu được).
HÀNH TA
Tính bình, vị cay có năng lực phát biểu hoà trung, thông dương hoạt huyết, làm ra mồ hôi, lợi tiểu , sát trùng, chữa đau răng, chữa các chứng sốt, cảm, nhức đầu, mặt mày phù thũng, làm yên thai, sáng mắt, lợi ngũ tạng, kích thích thần kinh, tăng bài tiết dịch tiêu hoá, đề phòng ký sinh trùng đường ruột, trị tê thấp. Tinh dầu hành có tác dụng sát khuẩn mạnh, dùng ngoài chữa mụn nhọt mưng mủ. Dùng nước hành nhỏ mũi chữa ngạt mũi cấp và mãn tính và viêm niêm mạc mũi. Vào 2 kinh phế và vị. Mỗi lần có thể dùng 30 – 60 g ở dạng sắc thuốc hoặc giã nát ép nước uống.
Chữa cảm cúm: Ăn bát cháo hành có thêm lá tía tô, hạt tiêu, gừng.
Chữa cảm, đầu nhức, mũi ngạt: Hành 30 g, Đạm đậu sị 15 g, gừng sống 10 g, chè hương 10 g. Nước 300ml, đun sôi, gạn bỏ bã, uống còn nóng, nằm đắp chăn kín cho ra mồ hôi.
Trẻ con cảm mạo: Hành 60 g, gừng sống 10 g. Hai thứ giã nát cho nước sôi vào, dùng hơi xông miệng mũi trẻ, ngày làm 2 – 3 lần không cần uống.
Chữa mụn nhọt: Hành tươi giã nát trộn với mật đắp lên mụn hễ ngòi ra thì dùng dấm rửa mụn.
Phụ nữ động thai: Hành tươi 60 g, 1 bát nước sắc kỹ lọc bỏ bã uống.
HÀNH TÂY
Tác dụng: Chữa ho trừ đờm, làm ra mồ hôi, lợi tiểu, chống phong thấp mạnh, trị phù thũng, cổ trướng, bệnh đái đường, giúp ngủ ngon, làm tiêu nhanh các chất bột, trừ giun đũa, trừ ho chống béo phì, xơ cứng động mạnh, kích dục, chống muỗi dĩn. Dùng ngoài trị áp xe, chín mé, mụn nhọt, chân nứt nẻ, mụn cóc, vết thương đau nửa đâu, đau thần kinh ngoại biên. Dùng hành sống mạnh hơn. Có thể dùng cồn thuốc tươi: nước ép Củ hành tươi 1 phần, cồn 90 độ 1 phần hoà chung. Dùng dần, ngày uống 15 – 20 g sau khi ăn. Hoặc dùng dạng rượu vang: Hành tươi 200 g ép lấy nước, mật ong 100 g, rượu vang hoặc rượu nhẹ 12 – 14 độ vừa đủ 1 lít, hoà đều, dùng dần. Ngày uống 2 lần vào sáng, tối sau bữa ăn. Mỗi lần uống 30 – 60 g.
HẸ
Tính ấm, vị cay ngọt vào hai kinh can và thận. Tác dụng bổ can thận, ấm lưng gối, chữa tiểu tiện nhiều lần do thận hư, tiểu xẻn vặt, đái són, mộng tinh, bạch trọc.
Lá và củ dùng chữa ho trẻ em (Lá hẹ hấp với đường hay đường phèn trong nồi cơm hoặc đun cách thuỷ). Còn dùng chữa các bệnh kiết lỵ ra máu, giúp tiêu hoá, tốt gan thận (di mộng tinh, đi tiểu nhiều lần). Liều dùng hàng ngày: từ 20 – 30 g. Sắc nước hẹ uống chữa giun kim. Hạt hẹ dùng chữa di mộng tinh, tiểu tiện ra máu, đau mỏi đầu gối, đau lưng, khí hư. Liều dùng ngày từ 6 – 12 g. Hẹ dùng phòng chữa các bệnh sau:
– Liệt dương: Gốc hẹ 200 g, Hồ đào 50 g sắc uống.
– Hạ cơn suyễn: sắc một nắm lá Hẹ uống.
– Đái đường: Nấu canh lá Hẹ ăn
– Lòi dom: Lá hẹ xào nóng chườm
– Dạ dày bị lạnh nôn: Hẹ giã vắt nước thêm nước gừng và sữa, uống,
– Bụng đầy anh ách: Rễ hẹ, Vỏ vối, Chỉ thực lượng bằng nhau, sắc uống.
– Sườn đau tức: Hẹ giã nát chưng với dấm, chườm.
– Đổ mồ hôi giữa ngực, vì lo nghĩ nhiều: Dùng 49 gốc hẹ sắc uống.
– Tai chảy mủ, côn trùng chui vào tai: giã Hẹ vắt nước nhỏ vào tai .
– Phạm phòng : Hẹ, Phân chuột, Dành dành, lượng bằng nhau, sắc uống.
– Trẻ sơ sinh: Giã rễ Hẹ vắt nước, nhỏ vào miệng cháu mấy giọt cho nôn hết chất dãi đục, phòng được các bệnh cho trẻ.
-
Rau diếp cá mùi tanh như cá nên còn được gọi là “ngư tinh thảo”, ngoài ra còn có tên là lá giấp hay, trấp thái.
Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, rau diếp cá có một số tác dụng chủ yếu như sau:
Kháng virus: Kết quả nghiên cứu cho thấy, diếp các có tác dụng ức chế đối với nhiều loại virus; có khả năng kìm hãm tác dụng gây bệnh của echovirus. Tinh dầu diếp cá, dùng dưới dạng thuốc tiêm, thuốc uống hay thuốc nhỏ mũi, đều có tác dụng phòng ngừa cúm ở mức độ nhất định. Nước cất diếp cá có tác dụng ức chế đối với virus gây bệnh mụn rộp (HSV).
Kháng khuẩn: Thuốc nước chế từ diếp cá tác dụng ức chế đối với vi khuẩn, như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn tan huyết, phế cầu khuẩn, trực khuẩn lao, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn coli, trực khuẩn lỵ…
Kháng viêm: Nghiên cứu trên động vật thí nghiệm cho thấy, rau diếp cá có tác dụng kháng viêm rõ rệt.
Tăng cường miễn dịch: Nước sắc diếp cá, cũng như thuốc chế từ một số hoạt chất chiết từ diếp cá có tác dụng tăng cường khả năng diệt khuẩn của bạch cầu và của đại thực bào.
Theo Đông y, diếp cá nằm trong nhóm thuốc “Lương huyết tiêu độc” (mát máu, tiêu độc), diếp cá có vị cay, tính lạnh; vào các kinh Phế và Can. Vì vậy nó có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi thủy tiêu thũng. Đối với các chứng ho do phế nhiệt, phế ung, thủy thũng, nhiệt lỵ, bạch đới, mụn nhọt… đều rất hiệu nghiệm.
Nhiều thầy thuốc Đông y ví diếp cá như “Thần dược trị phế ung”, họ dùng rau diếp cá để chữa các chứng bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi… đặc biệt là chứng bệnh mà người xưa gọi là “phế ung” , tức là có những triệu chứng giống như áp-xe phổi trong y học hiện đại.
Một số bài thuốc đơn giản từ diếp cá:
1. Chữa phế ung và các chứng bệnh đường hô hấp: Giã lá diếp cá rồi vắt lấy nước hoặc đem diếp cá sắc với nước, rồi cho bệnh nhân uống.
2. Chữa chứng ho ra máu, khạc ra đờm ở bệnh nhân lao phổi: Diếp cá tươi (khoảng 30g), cho vào nồi đất, đổ ngập nước ngâm trong 1 giờ, sau đó đun sôi 1-2 phút (chú ý không được đun lâu), bỏ bã chắt lấy nước, đập một quả trứng gà vào trộn đều; ăn từ từ từng ít một; mỗi ngày ăn 1 lần, liên tục 20-30 ngày.
3. Chữa chứng ho ra máu trong bệnh viêm phế quản, viêm phổi: Diếp cá tươi 60g, phổi lợn 1 bộ, nấu thành món canh; ăn phổi và uống nước thuốc, cách 2-3 ngày ăn 1 lần, dùng liên tục khoảng 3-5 tháng. Nhìn chung diếp cá rất tốt cho những người bệnh phổi như viêm phổi, áp-xe phổi, viêm phế quản…
4. Chữa viêm tai giữa, sưng tắc tia sữa: Dùng toàn cây diếp cá khô 20g, hồng táo (táo tàu) 10 quả, nước 600ml; sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
5. Chữa mắt đỏ đau: Lá diếp cá giã nhỏ, ép vào hai miếng gạc sạch, đắp lên mắt khi ngủ, làm như vậy 2-3 lần là khỏi.
6. Chữa trĩ, lòi rom: Lá diếp cá 6-12g sắc nước uống; đồng thời sắc nước lấy hơi xông rồi rửa. Có thể kết hợp ăn sống hàng ngày, đồng thời lấy diếp cá tươi, giã nát và đắp vào chỗ bị trĩ, băng lại và thay mỗi ngày khoảng 2 lần.
7. Chữa tiêu chảy do nhiễm khuẩn trong mùa hạ: Lá diếp cá tươi 60g (khô 20g), sắc với nước, thêm chút đường trắng vào uống trong ngày.
8. Chữa viêm đường tiết niệu: Lá diếp cá tươi 30g, mã đề 15g, kim tiền thảo 15g; sắc với nước, chia thành 2-3 lần uống trong ngày.
9. Chữa viêm tiền liệt tuyến cấp tính: Lá diếp cá tươi 60g, giã nát, đổ ngập nước vo gạo ngâm trong 1 giờ, sau đó bỏ bã, chia 2 lần uống trong ngày.
10. Chữa sốt cho trẻ hoặc người lớn: Dùng nước vo gạo mới và đặc đun sôi nhỏ lửa với lá diếp cá đã giã nhuyễn, khi nhừ thì lấy ra để nguội rồi cho trẻ uống ngày 3 lần.
Lưu ý: Lá diếp cá sống khi mới lấy về rất tanh và khó uống. Nhưng khi đã cho vào nồi đun sôi, vị tanh kia lại biến mất và rất dễ uống. Nếu bé thích uống thứ nước ngòn ngọt, bạn có thể cho thêm chút đường vào để bé dễ uống hơn.
11. Chữa viêm amidan, viêm họng: Lấy rau diếp cá tươi ngâm trong nước nóng như ngâm chè rồi uống. Cũng có lấy diếp cá tươi xào hoặc nấu chín làm thức ăn để ăn.
12. Chữa nhiễm trùng đường tiết niệu: Lấy 50g diếp cá tươi hoặc 30g diếp cá khô, sắc lên và uống hàng ngày.
13. Chữa mụn nhọt ngoài da: Lấy một nắm rau diếp cá rửa sạch, một nửa đem giã nát, đắp lên vùng bị mụn, một nửa đem ăn sống, nếu không ăn được sống, có thể giã nát lấy nước uống với chút đường cũng được.
14. Trị viêm cổ tử cung, đau bụng dưới: Lấy 30 – 60g diếp cá tươi + 30g cả bồ công anh và kim ngân, thêm nước vào sắc uống hàng ngày.
Ngoài trường hợp dùng trị bệnh, có thể thường xuyên bổ sung món diếp cá vào thực đơn hàng tuần, ăn sống hoặc xào, nấu canh… như vậy cũng thu được rất nhiều lợi ích cho sức khỏe. Tuy nhiên, diếp cá là một thứ có tính hàn (lạnh), không nên lạm dụng để tránh bị hao tổn dương khí, có thể sinh ra khí suyễn.
Theo Trithucvn